Các báo cáo mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về bệnh không
lây nhiễm nói rằng
bệnh không lây nhiễm (BKLN) là một
trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu, là nguyên nhân gây
tử vong nhiều hơn tất cả các nguyên nhân khác cộng lại. Bệnh không lây
nhiễm chiếm 38 triệu (68%) trong số 56 triệu người tử vong trên thế giới
trong năm 2012. Gần 3/4 số ca tử vong do BKLN (28 triệu), và phần lớn các
ca tử vong sớm (82%) xảy ra ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung
bình. Bốn bệnh không lây nhiễm phổ biến nhất (bệnh tim mạch, ung thư, các bệnh về
đường hô hấp mãn tính và bệnh tiểu đường) chịu trách nhiệm cho 82% các ca tử
vong BKLN. WHO tiếp tục lưu ý rằng, trong giai đoạn 2011-2025, thiệt hại kinh
tế tích lũy do bệnh không lây nhiễm ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung
bình ước tính khoảng 7.000 tỷ USD. Hơn 11,2 tỷ USD chi phí hàng năm để
thực hiện một loạt các can thiệp tác động cao để giảm gánh nặng BKLN.
Bệnh không lây
nhiễm là gì?
WHO định
nghĩa bệnh không lây nhiễm: "Là các bệnh không lây, còn được gọi là bệnh mãn tính,
không lây từ người sang người. Bệnh tiến triển trong thời gian dài và chậm”.
Bệnh không
lây nhiễm bao gồm các bệnh:
Bệnh tim: còn gọi là bệnh động mạch vành hay bệnh tim thiếu
máu cục bộ, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu. Nguyên nhân là do bệnh của mạch
máu tim (chủ yếu do xơ vữa động mạch).
Đột quỵ: là một bệnh của não gây ra do cung cấp máu cho não
bị hạn chế hoặc tắc nghẽn hoàn toàn. Đột quỵ và bệnh mạch vành chiếm 30% tổng
số tử vong toàn cầu, là nguyên nhân thứ ba gây tử vong ở Việt Nam và nguyên
nhân hàng đầu gây tử vong ở người trên 30 tuổi.
Khu vực
phát triển nhanh nhất bệnh tim mạch là khu vực châu Phi (27%) và người ta ước
tính rằng trong vòng 10 năm tới, gánh nặng từ BKLN sẽ tăng 17% trong khi những
người mắc các bệnh truyền nhiễm sẽ giảm 3%
Ung thư: trong đó các tế bào bất thường sinh sôi nảy nở và
lây lan ra khỏi tầm kiểm soát. Các thuật ngữ khác được sử dụng là các khối u và u ác tính. Có rất nhiều loại ung thư và tất cả các cơ quan trong cơ thể có
thể trở thành ung thư.
Bệnh phổi: Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và hen suyễn là những
hình thức bệnh phổ biến nhất. Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là do tắc nghẽn không thể đảo ngược
của đường hô hấp lớn trong phổi; hen suyễn là do tắc nghẽn có
thể đảo ngược của đường hô hấp nhỏ trong phổi.
Tiểu
đường: được đặc trưng bởi tăng glucose máu mạn
tính. Đây là kết quả từ sự thiếu nội
tiết tố insulin, giúp kiểm soát lượng đường trong máu, và / hoặc không có khả
năng đáp ứng với insulin của các mô của cơ thể. Phổ biến nhất là bệnh tiểu đường typ 2, chiếm khoảng 90% tất cả
các bệnh tiểu đường và phần lớn là kết quả của thừa cân và ít vận động.
Rối loạn tâm
thần: Hiện nay theo bảng phân loại bệnh
Quốc tế lần thứ 10 (ICD10)
về các rối loạn tâm thần và hành vi do WHO xuất bản năm 1992, hiện có đến hơn 300 loại rối loạn tâm
thần và hành vi như sa sút tâm thần; rối loạn tâm thần sau chấn thương sọ não hay
viêm não; các rối loạn tâm thần do sử dụng rượu và ma túy; tâm thần phân liệt;
rối loạn hoang tưởng; các loại rối loạn khí sắc như trầm cảm, hưng cảm, rối
loạn cảm xúc lưỡng cực…; các loại rối loạn lo âu; các rối loạn ăn uống như
chứng chán ăn tâm thần, chứng ăn vô độ hoặc là các rối loạn giấc ngủ như chứng
mất ngủ, ngủ nhiều, ác mộng, mộng du … Đa số các loại rối loạn này sẽ khỏi hay
ổn định nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, chỉ có một tỷ lệ rất thấp
(khoảng 1 -2%) là diễn tiến ngày càng nặng dần và không đáp ứng với điều trị.
Các yếu tố rủi
ro
Môi trường
sống không lành mạnh, thuốc lá, rượu bia, các loại thực phẩm nhiều chất béo bão
hòa trans, ăn nhiều muối, và đường (đặc biệt là trong các đồ uống ngọt), ít vận
động... là yếu tố nguy cơ phổ biến. Các mặt hàng thực phẩm nêu trên dễ tiếp cận
và giá cả phải chăng.
Tiếp xúc
với các yếu tố nguy cơ có thể bắt đầu từ rất sớm, trong thời thơ ấu và thậm chí
cả trước khi sinh
Các yếu tố nguy
cơ trung gian
Các yếu tố
nguy cơ trên dẫn đến các yếu tố nguy cơ trực tiếp được công nhận rộng rãi,
trong đó bao gồm cao huyết áp, lipid máu bất thường (chẳng hạn như cholesterol
cao), lượng đường trong máu cao và thừa cân / béo phì.
Những hậu quả
xã hội
Hậu quả
của bệnh không lây nhiễm là sâu sắc và sâu rộng. Ở mức độ cá nhân, mắc bệnh
không lây nhiễm có thể là một bi kịch đối với một gia đình phải vật lộn để tồn
tại. Ở cấp xã hội năng suất lao động
bị mất đi, hơn nữa có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế. Vì những lý do trên, bệnh không lây nhiễm có thể góp phần gây
nghèo, bẫy nghèo trong một chu kỳ nợ và bệnh tật, và tiếp tục gia tăng bất bình
đẳng kinh tế và xã hội.
Giải quyết bệnh
không lây nhiễm ở Việt Nam: Xác định các thách thức
Bệnh không lây
nhiễm đã trở thành một vấn đề thực sự. Không còn là bệnh của một quốc gia
có thu nhập cao hoặc vấn đề của người lớn. Tất cả các lứa tuổi và gần như
tất cả các nước đều có nguy cơ. Hiện nay, đái tháo đường, tăng huyết áp,
rối loạn tâm thần đang bắt đầu hiện diện ở lứa tuổi trẻ hơn và ung thư phát
triển thần tốc trong cộng đồng, tác động sâu rộng của BKLN dẫn đến các hiệu ứng
tâm lý, hành vi, xã hội, kinh tế và sức khỏe một cách đáng kể.
Mặc dù nhiều
giải pháp đã được đưa ra và cố gắng triển khai trong thực tế trong suốt thời
gian qua, tình hình không cho thấy vấn đề sẽ được đảo ngược. Trong thực
tế, với mỗi năm trôi qua, BKLN tiếp tục phát triển do không có sự thay đổi rõ
ràng trong tầm nhìn. Rõ ràng là chúng ta cần cách tiếp cận và chiến lược
mới.
BKLN là kết quả
của một loạt các yếu tố
Một thách thức
lớn là kết quả bệnh BKLN từ một hệ thống phức tạp của các chính sách, các yếu
tố xã hội, môi trường, kinh tế, hành vi, sinh lý và mối quan hệ xã
hội. Chỉ thay đổi một trong các bộ phận của hệ thống, có thể có tác dụng
rất ít hoặc thậm chí tệ hơn, hậu quả ngoài ý muốn. Ví dụ, giới thiệu một
số chương trình tập thể dục hoặc các loại thực phẩm trong chế độ ăn uống có thể
làm tăng mức tiêu thụ calo. Ngay cả khi thay đổi các bộ phận của hệ thống
có tác động tích cực, những lợi ích này thường không bền vững. Nó giống
như việc thay thế một phần nhỏ duy nhất, khi toàn bộ một động cơ bị hỏng hóc.
Sửa chữa toàn
bộ, không sửa các bộ phận riêng lẽ
Chúng ta cần
phải giải quyết vấn đề lâu dài BKLN bằng cách tìm hiểu làm thế nào để mỗi yếu
tố, thành phần, quy trình và các bên liên quan có chính sách phù hợp với nhau
và sau đó tìm kiếm các giải pháp cùng thắng. Mọi giải pháp sẽ không hoạt
động tốt nếu các bên liên quan - chẳng hạn như Chính phủ hoặc các nhà sản xuất, ngành Y tế - không nhìn
về một hướng.
Giống như các
khu vực đang phát triển khác, Việt Nam đã có sự tăng mạnh gánh nặng của các
bệnh mãn tính, hay còn gọi là bệnh không lây nhiễm, hiện nay là nguyên nhân
chính gây tử vong và chi tiêu y tế của nhà nước và người dân.
Thách thức của việc đáp ứng
Hệ thống y tế cơ sở hiện nay chủ yếu tập trung vào việc cung
cấp các dịch vụ thiết yếu cho sức khỏe bà mẹ, trẻ em và phòng chống các bệnh truyền nhiễm, tiêm chủng, chưa thích nghi với thực trạng tăng
mạnh bệnh không lây nhiễm. Tất cả các nước dù giàu hay nghèo, đều đối mặt với những
thách thức trong việc ứng phó với bệnh không lây nhiễm.
Các nước có thu nhập cao xu hướng có tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường cao. Tại Việt Nam trong
khi các nguồn lực tài chính mặc dù còn hạn chế, nhà nước có quan tâm đến bệnh không lây nhiễm nhưng
sự thật chúng ta chưa chú ý đến sự song hành giữa kinh tế xã hội và kiểm soát các bệnh không lây nhiễm,
hành động quan tâm đến sức khỏe cộng đồng của nhà nước vẫn chưa đủ để ngăn chặn sự
gia tăng của đái tháo đường,
tăng huyết áp, ung thư, rối loạn tâm thần; xu hướng thừa cân, béo phì, và các yếu tố nguy cơ có
xu hướng phát triển mạnh trong thời gian gần đây,
và hệ thống y tế không có đủ nhân lực
để thực hiện tất cả các công
việc để kiểm soát BKLN.
Chính sách và chương trình phòng chống bệnh không lây nhiễm
và kiểm soát nó có những trở ngại thực sự. Việt Nam là nước xếp vào nước có
thu nhập thấp phải chịu ảnh hưởng bởi nguồn
lực tài chính yếu và năng lực nhân
viên Y tế chưa đáp ứng kịp và
một cơ sở hệ thống y tế chưa đồng bộ để
dễ dàng kiểm soát bệnh không lây nhiễm.
Để giải quyết các bệnh không lây nhiễm cần dựa vào việc tăng
cường phòng chống, chăm sóc y tế và giám sát các yếu tố nguy cơ với sự hỗ trợ và quản trị
đúng. Tuy nhiên, mặc dù có sẵn hệ
thống y tế công cộng đầy đủ để thực hiện mục tiêu này, bệnh không lây nhiễm vẫn chưa trở thành một ưu tiên của quốc
gia và ngành Y tế đúng
nghĩa. Mặc dù đã đề ra kế hoạch hành động và chiến lược quốc gia về bệnh không lây
nhiễm. Thực tế rất ít các mục tiêu trong số
đó được triển khai thực hiện toàn diện. Khung pháp lý y tế công cộng
rất yếu (ví dụ bảo vệ quần
thể khỏi
ảnh hưởng của ngành công nghiệp thuốc lá, rượu bia, môi trường... và xung đột lợi ích trong
việc loại bỏ các yếu tố nguy cơ).
Chức năng hệ thống giám sát BKLN là nguồn cung cấp bằng
chứng kịp thời và đáng tin cậy về xu hướng mắc và tử vong do BKLN hiện nay, tỉ lệ mắc bệnh, và phản ứng
hệ thống y tế chưa đáp ứng
kịp thời. Y tế vẫn hướng vào việc cung cấp thông tin hơn là chăm sóc phối hợp, đa
ngành và liên tục để đáp ứng số
lượng ngày càng tăng người dân với nhiều bệnh lý không lây
nhiễm. Dự phòng cộng đồng là một vấn đề thực sự khó khăn. Nếu không làm tốt kiểm soát thuốc lá, rượu bia, kiểm soát môi trường hoặc
thúc đẩy hoạt động thể chất và chế độ dinh dưỡng hợp lý thì khó có thể giải quyết thực trạng
bệnh không lây nhiễm đang gia tăng với tốc độ chóng mặt.
Đối phó với bệnh không lây nhiễm
Đầu tiên, đòi hỏi một hành động khẩn cấp. Đưa hoạch định
chính sách y tế bệnh không lây nhiễm như đòi hỏi một cách tiếp cận phát
triển. Bệnh không lây nhiễm không mất đi ngay cả trong khủng hoảng về kinh
tế xã hội.
Thứ hai, tiếp cận hệ thống y tế quốc gia phải dễ dàng và
thuận lợi, ngành y tế không phải vật lộn với những thách thức của việc phát
triển các phương pháp và công cụ để giải quyết các bệnh không lây nhiễm ở các
quần thể.
Thứ ba, cần có sự tham gia tích cực của khu vực xã hội phi
y tế. Các chương trình BKLN không có các thông điệp xã hội mạnh mẽ để thu
hút khán giả rộng lớn hơn.
Các khuyến
cáo cần đi vào thực tế bền vững
- Giảm sử
dụng thuốc lá
- Giảm
muối trong chế độ ăn uống, vì muối có thể làm hỏng các mạch máu, giảm muối
trong thực phẩm sẽ giảm huyết áp đáng kể trên toàn bộ quần thể, và do đó sẽ làm
giảm nguy cơ bệnh tim và đột quỵ. Các
ngành công nghiệp thực phẩm là một đối tác quan trọng ở đây.
- Cải
thiện chế độ ăn và hoạt động thể chất, hạn chế thị phần thực phẩm và đồ uống có nhiều
đường, chất béo và muối, bảo
vệ trẻ em khỏi những tác động mạnh mẽ của quảng cáo trong các bữa ăn. Khuyến khích các nhà sản xuất thực phẩm tái cấu trúc các sản phẩm
thực phẩm chế biến để giảm mức độ chất béo bão hòa, chất
béo trans, muối và đường, và ghi nhãn rõ ràng để giúp người tiêu dùng
lựa chọn đúng đắn.
- Giảm tiêu thụ lượng rượu ở mức nguy hại, hạn chế đồ uống có cồn nhằm vào người tiêu dùng trẻ tuổi. Hạn chế và kiểm soát mua bán rượu bia, và giới thiệu các biện pháp
để tăng giá rượu bia như
là một cách hiệu quả để giảm tiêu thụ rượu
bia.
- Tiếp
cận thuốc thiết yếu và công nghệ theo
dõi BKLN trong cộng đồng, phổ cập chăm sóc sức khỏe dựa vào bảo hiểm Y tế là điều cần thiết, phát triển hệ thống bác sỹ gia đình. Ở những nơi
thu nhập thấp, thuốc rẻ và hiệu quả có
thể được thực hiện rộng rãi. Mở rộng các phương pháp tiên tiến để điều trị bệnh ung thư, bệnh tim
mạch và tiểu đường cho người
dân.
Tóm lại, vấn đề phòng chống BKLN đòi hỏi cách tiếp cận toàn
diện./.
BS Nguyễn Hóa